Quân đội ta, là con đẻ của một dân tộc và nhân dân anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mầm mống lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân đã ra đời vào những năm 1930 - 1931 trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Đội tự vệ Đỏ, Đội tự vệ Công nông, nhằm chiến đấu chống quân thù khủng bố, đàn áp, bảo vệ quần chúng và phong trào cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng và làm công tác vận động quần chúng. Những năm 1939 - 1945, thời kì chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời như Đội du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Đội quân du kích Ba Tơ,… Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời, thống nhất các lực lượng vũ trang trong cả nước. Lần đầu tiên, một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, một quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, đã không ngừng lớn mạnh và lập nên biết bao kỳ tích trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân tháng Tám năm 1945, trong các cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc, suốt 30 năm ròng của thế kỷ XX, trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Đội danh dự Quân đội nhân dân Việt Nam
|
Từ những chiến công đầu Phai Khắt, Nà Ngần đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, từ khí thế cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh của quân và dân Hà Nội mở đầu ngày toàn quốc kháng chiến, tháng 12-1946, đến trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954, Quân đội nhân dân cùng các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước đã trưởng thành vượt bậc, trở thành một quân đội cách mạng chính quy, lập nên kỳ tích “lẫy lừng năm châu, chấn động địa cầu”. Thắng lợi của quân đội và nhân dân ta không những đã làm phá sản mưu đồ quay trở lại thống trị Việt Nam của chủ nghĩa thực dân mà còn cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên, mở đầu cho sự sụp đổ hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới. Từ những chiến công mở đầu cuộc kháng chiến lần thứ hai đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một lần nữa Quân đội nhân dân Việt Nam lại lập nên những chiến công vang dội thế giới, giành độc lập tự do toàn vẹn, thống nhất Tổ quốc, mở đầu cho thời kỳ mới, thời kỳ cả nước ta ra sức xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Đó là những mốc son chói lọi được ghi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc, nó đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng và phát triển vượt bậc của quân đội ta.
Ngày nay, chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) với nhiều cơ hội lớn và thách thức mới, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động to lớn, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang được đẩy mạnh. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển nhanh, tác động rất lớn đến cơ cấu và sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, cùng với hoạt động khủng bố có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản trong thương mại với các nước nghèo và nước đang phát triển. Tình hình ấy đặt ra cho Quân đội ta những yêu cầu mới, đòi hỏi sự phát triển cả về tiềm lực và sức mạnh tổng hợp. Giữ vững bản chất và phát huy truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam: “Trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[1].
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ phải đẩy mạnh “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống”[2]. Đảng cũng chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh hiện nay là: “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”[3].
Cùng với toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có Quân đội nhân dân, hơn bao giờ hết phải nỗ lực thực hiện thắng lợi mục tiêu và hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong thời kỳ mới. Vì vậy, Quân đội nhân dân phải được xây dựng ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và BVTQ, phải xây dựng quân đội: Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Để đạt được yêu cầu đó, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan; giải quyết nhiều vấn đề, trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là quán triệt, nắm vững quan điểm của Đảng về tăng cường quốc phòng-an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nội dung cơ bản của đường lối quốc phòng-an ninh của Đảng có thể khái quát là: đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng về tăng cường quốc phòng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là cơ sở quan trọng nhất của việc xây dựng Quân đội nhân dân, bảo đảm cho Quân đội nhân dân có đủ khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cần nhận thức rõ nhiệm vụ BVTQ hiện nay có sự phát triển mới. Theo đó, nhiệm vụ của Quân đội có sự phát triển phù hợp và yêu cầu xây dựng quân đội cũng ngày càng cao hơn. Quân đội phải được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, trước hết và quan trọng nhất là vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, về đường lối đổi mới quốc phòng, an ninh của Đảng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tự tôn dân tộc. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta và Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp BVTQ trong thời kỳ mới càng đòi hỏi phải tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân, khai thác mọi nguồn lực, tập trung sức tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là Quân đội nhân dân; phát huy nghệ thuật chiến tranh nhân dân truyền thống, không ngừng nâng cao trình độ khoa học-kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu tác chiến mới, coi đó là những yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và BVTQ trong giai đoạn mới.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, cần thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:
- Cần quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, cụ thể hóa nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, xây dựng Quân đội nói riêng, đạt hiệu quả thiết thực. Việc tuyên truyền, giáo dục, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị nói trên cần được tiến hành thường xuyên đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời, làm cho cộng đồng quốc tế thấy rõ quan điểm, chính sách quốc phòng BVTQ của nhân dân ta để tạo sự đồng tình, ủng hộ. Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng để tự vệ, góp phần vào việc giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; kiên trì giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ với các quốc gia bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam không tham gia bất cứ tổ chức liên minh quân sự nào và cũng không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống nước khác...
- Xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, mà trước hết là ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột vũ trang, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống, kể cả chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao. Những quan điểm cơ bản nêu trên của Đảng mang tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc, thể hiện rõ đặc trưng, bản chất giai cấp của quân đội cách mạng mà chúng ta xây dựng. Thấu suốt những quan điểm đó là tiền đề để xây dựng Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện về mọi mặt là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Để phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; của các ngành, các cấp, các lực lượng và toàn dân vào sự nghiệp quốc phòng, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục QP-AN. Sau 14 năm (từ năm 2001) thực hiện công tác này, chúng ta đã đạt được kết quả quan trọng, khá toàn diện, nhất là về bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước. Nhờ đó, tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân và nền quốc phòng toàn dân, BVTQ. Tuy vậy, công tác này cũng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cần có giải pháp khắc phục kịp thời. Trong thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Nghị định số 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục QP-AN. Nhằm thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện công tác giáo dục - đào tạo theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI).
- Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, trên cơ sở xây dựng nguồn lực quốc phòng vững mạnh. Nguồn lực quốc phòng toàn dân bao gồm cả con người và vũ khí trang bị, con người trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng phải là con người có bản lĩnh cách mạng, có tri thức khoa học, có nghiệp vụ, trình độ cao để có thể sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị, coi đó là biện pháp cơ bản tăng cường sức mạnh quốc phòng BVTQ. Xây dựng cả tiềm lực và thế trận, xây dựng lực lượng thường trực chiến đấu và lực lượng dự bị động viên, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu đáp ứng mọi tình huống có thể xảy ra. Đặc biệt coi trọng xây dựng cơ sở chính trị-xã hội và “thế trận lòng dân” của nền quốc phòng toàn dân. Nhiệm vụ BVTQ phải được quán triệt sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân. Lòng tin vào Đảng, tình cảm, trách nhiệm đối với chế độ, tinh thần yêu nước phải được khơi dậy và phát triển ở mọi người Việt Nam. Có chính sách cụ thể thực hiện phương hướng xây dựng lực lượng, nguồn lực và tiềm lực quốc phòng vững mạnh, đủ sức đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
- Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt coi trọng xây dựng quân đội về chính trị. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất, một nguyên tắc cơ bản quyết định bảo đảm sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, trung thành tuyệt đối với Đảng với Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng là lực lượng nòng cốt BVTQ. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của quân đội ta hiện nay là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, trách nhiệm chính trị của quân đội là phải đánh thắng. Quân đội ta không những phải đủ sức đánh thắng địch trong điều kiện chiến tranh thông thường mà còn phải chiến thắng kẻ thù trong các loại hình chiến tranh khác, kể cả chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Vì vậy, ngay trong thời bình, chúng ta phải tranh thủ thời cơ, tận dụng thời gian có lợi, khai thác mọi nguồn lực, tập trung xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu cao nhất của phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Không ngừng nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự; học thuyết quân sự; Học thuyết Quốc phòng Việt Nam phù hợp với nhiệm vụ trước mắt và yêu cầu phát triển của quân đội trong từng giai đoạn, tiến đến một nền khoa học quân sự hiện đại của chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao. Để đảm bảo cho Quân đội ta luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ; đánh thắng mọi kẻ thù trong mọi tình huống.
Để đối phó với chiến tranh kiểu mới, do khả năng kinh tế và tài chính của đất nước chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vũ khí, kỹ thuật hiện đại, chúng ta phải vận dụng sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân, đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, trang bị có trong tay; phải cố gắng tự cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá; kết hợp mua sắm một số vũ khí trang bị hiện đại.
Xây dựng quân đội tinh nhuệ, nói một cách cụ thể là: cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tinh nhuệ; cán bộ, nhân viên kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ tinh nhuệ; chiến sĩ tinh nhuệ; tổ chức, biên chế tinh gọn; vũ khí, trang bị tinh nhuệ (thuần thục kỹ thuật, chiến thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, cương vị công tác; khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, vận dụng, ứng phó linh hoạt ...). Muốn thực hiện được điều đó, Quân đội ta phải được huấn luyện thành thục mọi cách đánh thích hợp với sở trường và điều kiện địa hình, thời tiết của ta. Cán bộ nhất thiết phải được đào tạo, rèn luyện cơ bản, chính qui ở các trường để được trang bị những kiến thức, động tác thực hành cần thiết, tương ứng với cương vị đảm nhiệm.
Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy phải biết nhận định, đánh giá tình hình nhanh, chính xác, hạ quyết tâm đúng, kịp thời, chỉ huy, hiệp đồng linh hoạt, đánh thắng địch giòn giã, ngay cả khi tương quan về số quân và vũ khí, trang bị của ta còn thua kém hơn. Cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cần được đào tạo cơ bản, chuyên sâu, có trình độ tinh thông nghiệp vụ, thao tác thuần thục, sử dụng thành thạo linh hoạt các loại vũ khí trong biên chế. Chiến sĩ phải được huấn luyện, rèn luyện để có sức bền, dẻo, mạnh, có động tác chiến thuật, kỹ thuật đạt đến trình độ kỹ xảo, đánh hiệu quả, đồng thời cũng phải biết phòng tránh tốt, giữ an toàn người và vũ khí, trang bị của ta để đánh lâu dài. Lực lượng dự bị động viên cần được tổ chức theo các đơn vị quân binh chủng; xếp đúng chuyên môn nghiệp vụ và được huấn luyện thường xuyên để khi được động viên sẽ nhanh chóng hoà đồng với đơn vị thường trực. Đẩy mạnh xây dựng quân đội từng bước hiện đại vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Quân đội hiện đại là quân đội được trang bị những kiến thức khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự và vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự mới nhất. Do khả năng tài chính, trình độ của nền kinh tế. Công nghiệp quốc phòng, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của ta có hạn, sự chi viện của hệ thống XHCN không còn, ta phải lấy tự lực cánh sinh là chính. Vì vậy, xây dựng quân đội từng bước hiện đại là một quá trình lâu dài, phải thực hiện từng bước; phải căn cứ vào tình hình khách quan để lựa chọn thứ tự nội dung ưu tiên, vừa đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu trước mắt, vừa bảo đảm tính hiệu quả, giữ được sức mạnh chiến đấu cơ bản lâu dài của quân đội, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và BVTQ.
Phát huy truyền thống vẻ vang 70 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân(1989-2014) tập trung tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc toàn diện về chất lượng chính trị, tư tưởng, trước hết là trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức cách mạng; không ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, chất lượng huấn luyện, công tác, nếp sống chính quy, chấp hành kỷ luật, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực cùng nhân dân cả nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
--------------------------
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2000, tr.350.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.234.
[3] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Thượng tướng, Viện sĩ, TS KHQS Nguyễn Huy Hiệu
Nguyên Ủy viên BCHTƯ Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Nguồn ĐCSVN
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065