BP - Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, công khai, kịp thời và có tính thống nhất trong ngành lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Để thực hiện chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh theo những nguyên tắc chi đúng: đối tượng thụ hưởng, số lượng và chất lượng rừng, nguồn ủy thác, hạng mục, thẩm quyền, quy chế quản lý tài chính có hiệu quả thì nhất thiết phải thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu, trong đó quan trọng nhất là bản đồ chi trả DVMTR dạng kỹ thuật số.
Cộng đồng thôn 3, xã Đắk Ơ (Bù Gia Mập) tuần tra, bảo vệ rừng tại Vườn quốc gia Bù Gia Mập - Ảnh: H.C
Bản đồ chi trả DVMTR dạng kỹ thuật số giúp phân lập các lô rừng. Đây cũng là đơn vị cơ sở để xác định giá tiền chi trả DVMTR. Mỗi lô rừng trên địa bàn tỉnh phải có đủ thông tin cần thiết để tính toán chi trả DVMTR. Những thông tin đó chính là điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi lô rừng, như: hiện trạng rừng, nguồn gốc rừng, quy hoạch ba loại rừng, độ cao, độ dốc, khoảng cách tới trung tâm xã, địa giới hành chính (huyện, xã), chủ rừng, tiểu khu, khoảnh, lô, đối tượng nhận khoán bảo vệ rừng (cộng đồng, hộ gia đình), kết quả quản lý bảo vệ rừng, lưu vực, cơ sở sử dụng dịch vụ, loại dịch vụ, tiền ủy thác, trích quỹ dự phòng, bản đồ lô rừng, diện tích lô rừng, các hệ số K thành phần, hệ số K tích hợp, giá chi trả bình quân cho mỗi ha rừng, giá và tiền chi trả cho mỗi lô rừng... Những thông tin này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, khi có sự thay đổi sẽ kéo theo thay đổi thông tin khác. Sẽ rất thuận lợi khi kiến tạo và quản lý những thông tin này bằng bản đồ chi trả DVMTR với hệ thống thông tin địa lý.
Bên cạnh sự phong phú về loại thông tin, mối quan hệ giữa các thông tin thì số lượng lớn các lô rừng trên địa bàn tỉnh được đặt trong một hệ thống chung làm cho bản đồ chi trả DVMTR có dung lượng lớn. Hệ thống thông tin địa lý cho phép quản lý, khai thác, sử dụng thuận lợi, có hiệu quả bản đồ này. Quản lý tài nguyên rừng bằng bản đồ là phương pháp quản lý có hiệu quả cao. Vì nó không những trực quan, dễ tiếp cập mà còn thuận lợi cho việc quản lý các lô rừng theo đặc tính của nó. Thông tin chi trả DVMTR thường có sự biến động, cần được cập nhật hằng năm một cách chính xác, kịp thời, đồng bộ từ: ảnh vệ tinh, bản đồ diễn biến rừng, số liệu thực tế từ các đơn vị chủ rừng. Nội dung này thực hiện hiệu quả nhất bằng bản đồ chi trả DVMTR với hệ thống thông tin địa lý và những công nghệ không gian địa lý khác.
Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu chi trả DVMTR tỉnh phải được công khai rộng rãi, kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu khác ở địa phương và của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong bản đồ chi trả DVMTR có hợp phần dữ liệu không gian và hợp phần dữ liệu thuộc tính. Hợp phần dữ liệu thuộc tính này có thể chuyển đổi sang nhiều dạng khác nhau nên rất thuận lợi cho việc kết nối, khai thác sử dụng bằng những công nghệ khác nhau. Hiện Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng của tỉnh chưa có bản đồ chi trả DVMTR. Số liệu chi trả DVMTR 2 năm 2013 và 2014 được tổng hợp từ các đơn vị chủ rừng. Tỷ lệ giữa diện tích quy đổi với diện tích tự nhiên của rừng ở các đơn vị chủ rừng biến động từ 0,8-0,97, chỉ Vườn quốc gia Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập và Vườn quốc gia Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng có tỷ lệ này lớn hơn 0,9. Trong khi đó, tại Quyết định số 1903/QĐ-UBND ngày 22-10-2013, UBND tỉnh quy định áp dụng giá trị các hệ số K thành phần về: nguồn gốc, hiện trạng, quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp biến động từ 0,9-1. Riêng hệ số K về mức độ khó khăn đối với công tác bảo vệ rừng lấy giá trị bằng 1. Như vậy, cần xem xét thêm phương pháp áp dụng hệ số K theo Quyết định số 1903 để xây dựng cơ sở dữ liệu chi trả DVMTR ở các đơn vị chủ rừng.
Sự cần thiết phải thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu chi trả DVMTR mà đặc biệt là bản đồ chi trả DVMTR là khách quan. Xuất phát từ sự cần thiết phải thiết lập cơ sở dữ liệu chi trả DVMTR và áp dụng giá trị các hệ số K thành phần mà UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu thiết lập cơ sở dữ liệu và tự động hóa chi trả dịch vụ môi trường rừng” (Công văn số 4106/UBND-KTN ngày 2-12-2014 và Công văn số 1933/SNN-VP ngày 16-12-2014). Ngày 4-8-2015, Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh đã cho quỹ thực hiện nghiên cứu. Đây là tiền đề quan trọng để quỹ nỗ lực thực hiện đề tài, góp phần thực hiện chính sách chi trả DVMTR khách quan và khoa học.
TS. Trần Quốc Hoàn
Phó giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065