Điều 65 trong Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai là những quy định về thẩm quyền thu hồi đất. Điều này gồm có 3 khoản, với nội dung như sau: 1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định trong các trường hợp sau: a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này; b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn để chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp; c) Thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả đất của người bị thu hồi đất quy định tại điểm a, điểm b khoản này và khoản 2 Điều này. 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định trong các trường hợp sau: a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; b) Thu hồi đất ở gắn liền với nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam. 3. Người có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này không được ủy quyền.
Theo quy định tại Điểm b, Khoản 1 của Điều 65 trong dự thảo thì việc quyết định thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn để chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đây là quy định mới được đưa vào dự thảo. Trong Luật Đất đai năm 2003 không có quy định này. Hiện nay, việc thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất 5% công ích của UBND cấp xã thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện và được quy định tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ. Cụ thể, tại Điều 38 trong Nghị định số 84/2007/NĐ-CP về thu hồi đất trong trường hợp đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn có quy định như sau: UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Vì vậy, tôi đề nghị giao quyền cho thu hồi loại đất này cho UBND huyện. Vì đất 5% ngoài việc dùng để quy hoạch xây dựng các công trình cơ bản, công trình phúc lợi công cộng của địa phương thì còn là quỹ đất dùng để đấu giá tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở cơ sở. Hơn nữa, thực tế thời gian qua cho thấy, để thu hồi được diện tích đất nhất định sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp tại cơ sở phải qua rất nhiều cơ quan chức năng ở tỉnh, dẫn tới chậm trễ tiến độ, do vậy tôi đề nghị giao quyền thu hồi đất nông nghiệp cho UBND huyện.
Thứ hai là thẩm quyền thu hồi đất của UBND huyện quy định tại Khoản 2 của điều này bao gồm các đối tượng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư. Trong khi đó, tại Điểm c, Khoản 1 của điều này lại quy định thẩm quyền thu hồi đất của UBND cấp tỉnh đối với trường hợp thuộc khoản 2 điều này. Như vậy, thẩm quyền thu hồi đất ở điều này có sự chồng chéo, UBND tỉnh có thẩm quyền thu hồi và UBND huyện cũng có thẩm quyền thu hồi. Một khi quyết định của UBND tỉnh ban hành sau quyết định của UBND huyện thì thế nào thì quả là gây khó cho UBND cấp xã. Vì vậy, tôi đề xuất ý kiến giao thẩm quyền thu hồi đất của các đối tượng trên cho UBND cấp tỉnh thực hiện cho thuận tiện hơn. Vì nếu giao cho UBND cấp huyện thực hiện thì việc thu hồi sẽ khó khăn hơn và dễ dẫn đến việc từ chỗ quen biết mà phát sinh tiêu cực. Hơn nữa, việc UBND cấp tỉnh thu hồi với mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội cũng là phục vụ tại địa phương, cơ sở.
Điều 161 là những quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Điều này có 3 khoản và ở Khoản 2 có nội dung như sau: 2. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất:
Phương án 1: Hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất: chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực. Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp được công chứng, chứng thực theo nhu cầu của các bên.
Phương án 2: Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được thực hiện theo nhu cầu của các bên.
Theo suy nghĩ của cá nhân tôi thì việc công chứng, chứng thực theo nhu cầu của các bên là không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự về chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng tài sản trên đất và không đồng bộ với Luật Nhà ở. Để pháp luật được đồng bộ và thống nhất, tôi đề nghị trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi nên quy định bắt buộc phải công chứng, chứng thực đối với các hợp đồng giao dịch trên, để bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia và đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Đồng thời, qua đó sẽ trách được những phiền hà, rắc rối cho người dân và các cơ quan chức năng của Nhà nước khi xảy ra tranh chấp giữa các bên có liên quan. Thức tế cho thấy, việc sang nhượng đất đai và tài sản trên đất dẫn đến tranh chấp trong thời gian qua khá phức tạp và có những vụ kéo dài vì hồ sơ sang nhượng giữa các bên thiếu tính pháp lý.
Hoàng Lan
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065