Điều trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi là những quy định về quyết định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, gồm 4 khoản với nội dung như sau: 1. Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia. 2. Chính phủ phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất an ninh. 3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. 4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. Trường hợp địa phương không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét duyệt. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện phải trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất hàng năm để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh.
Theo ý kiến của cá nhân tôi thì quy định như trên là chưa phù hợp với thực tế hiện này và có nguy cơ luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung. Vì hiện nay chúng ta đang thực hiện thí điểm, tiến tới sẽ bỏ Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện. Vì vậy, tôi đề nghị ở Khoản 4 của điều này cần được sử đổi, bổ sung và viết lại như sau: 4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện phải trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất hàng năm để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh. Quy định như trên vừa phù hợp, vừa chặt chẽ và điều khoản lại ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực thi. Hơn nưa, việc giao trách nhiệm quy hoạch đất cho cấp huyện là không cần thiết, vì khi cấp tỉnh quy hoạch thì đã thực hiện trên toàn địa bàn, trong đó có của cả cấp huyện.
Tại Khoản 1, Điều 57 là những quy định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gồm những nội dung như sau: 1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định trong các trường hợp sau đây: a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo; c) Giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; d) Giao đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; đ) Cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh; e) Cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ; hoạt động khoáng sản; sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; làm cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp khác; g) Cho phép hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ.
Theo ý kiến của cá nhân tôi thì quy định như trên cũng giống như chính sách quản lý đất đai hiện hành, nhất là các quy định ở các điểm a, b, c của khoản này. Và đây là nguyên nhân dẫn đến việc giao đất tràn lan ở nhiều đia phương trong cả nước thời gian qua. Tôi đế nghị, đối với những trường hợp giao đất ở các điểm a, b, c nêu trên là: a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo; c) Giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; d) Giao đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức kinh tế liên doanh để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê; cần được giao về cho Chính phủ và thẩm quyền này thuộc Thủ tướng chính phủ quyết định. Có như vậy, việc giao đất cho các trường hợp trên mới được thực hiện chặt chẽ, thống nhất trong cả nước.
Điều 72 trong dự thảo là những quy định về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất, với những nội dung như sau: 1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 73 của Luật này thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền. 2. Việc bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai và đúng quy định của pháp luật. 3. Cơ quan có trách nhiệm chi trả tiền bồi thường phải chi trả kịp thời cho người có đất bị thu hồi.
Theo ý kiến của cá nhân tôi thì quy định như trên là hoàn toàn đúng, nhưng chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nhiều địa phương. Hơn nữa, với quy định trên sẽ khó ngăn chặn được tình trạng dự án được giao đất nhưng vẫn cứ treo. Thậm chí có không ít nhà đầu tư lợi dụng chính sách này kéo dài việc thực hiện dự án hoặc xí phần rồi để đó. Vì vậy, tôi đề nghị ở điều này cần bổ sung thêm một khoản nữa với những quy định về việc thu hồi đất ở các dự án treo. Có như vậy thì người dân có đất bị thu hồi ở những dự án treo mới không bị thiệt thòi và người được giao đất sẽ phải xúc tiến thực hiện dự án. Và nội dung của khoản mới bổ sung là: Đất trong quy hoạch đã được giao nhưng chủ dự án không thực hiện thì người dân bị thu hồi đất được quyền sản xuất, xây dựng các công trình tạm và nếu bị nhà nước thu hồi thì chủ đầu tư phải đền bù phần xây dựng tạm, tiền mà người dân đã đầu tư để canh tác.
NV
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065