* Quốc hội khóa I (1946-1960) bầu cử ngày 6-1-1946, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu: 89%; Tổng số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) gồm 403, trong đó có 333 đại biểu được bầu; đại biểu không đảng phái chiếm 43%; số đại biểu không qua bầu cử có 70 vị (thuộc Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội - Việt Cách, và Việt Nam Quốc dân Đảng - Việt Quốc, theo thỏa thuận đạt được ngày 24-12-1945 với Việt Minh). Số đại biểu không qua bầu cử này thể hiện chủ trương của Việt Minh về hòa hợp dân tộc, tập trung lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I đã công nhận Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Bác Hồ làm Chủ tịch, ông Vĩnh Thụy (tức là cựu hoàng Bảo Đại) làm cố vấn tối cao. Với 12 kỳ họp, Quốc hội khóa I đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng Nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Trong nhiệm kỳ 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã xem xét và thông qua bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, 11 đạo luật và 50 nghị quyết, phê chuẩn Hiệp định Giơ-ne-vơ. Luật Cải cách ruộng đất được thông qua tại kỳ họp thứ 3 (năm 1953) là văn bản có ý nghĩa quan trọng nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chính sách "người cày có ruộng" và chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Quốc hội khóa I đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Bác Hồ bỏ phiếu bầu cử |
* Quốc hội khóa II (1960-1964) bầu cử ngày 8-5-1960, với tỷ lệ cử tri bỏ phiếu 97,52%; tổng số 453 đại biểu (362 đại biểu được bầu, 91 đại biểu khóa I của miền Nam được lưu nhiệm); số đại biểu ngoài Đảng là 64; đại biểu là cán bộ kinh tế, khoa học kỹ thuật (KT-KHKT) có 66 vị. Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa II từ ngày 6 đến 15-7-1960, Quốc hội bầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 21 Ủy viên chính thức, 5 Ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
* Quốc hội khóa III (1964-1971) được bầu ngày 26-4-1964, gồm 453 đại biểu, trong đó có 366 đại biểu được bầu, 87 đại biểu khóa I của miền Nam được lưu nhiệm. Kỳ họp thứ nhất từ ngày 25-6 đến ngày 3-7-1964, tại Hà Nội, Quốc hội khóa III đã bầu Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch nước: Tôn Đức Thắng và Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 23 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm kỳ Quốc hội khóa III kéo dài 7 năm và có 7 kỳ họp; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 lần, thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và tổ chức hành chính, nhân sự.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII
- Ảnh: Internet
* Quốc hội khóa IV (1971-1975) bầu cử ngày 11-4-1971, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu đạt 98,88%; tổng số đại biểu được bầu gồm 420 vị, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 103 vị, đại biểu là cán bộ KT-KHKT có 53 vị. Với nhiệm kỳ 4 năm, Quốc hội khóa IV và đã có 5 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch, 5 Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, 17 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
* Quốc hội khóa V (1975-1976) bầu cử ngày 6-4-1975, với tỷ lệ cử tri bỏ phiếu là 98,26%; tổng số đại biểu được bầu là 424, trong đó đại biểu ngoài Đảng là 110, đại biểu là trí thức XHCN có 93 vị. Quốc hội khóa V là Quốc hội có nhiệm kỳ ngắn nhất (từ tháng 4-1975 đến tháng 4-1976, với 2 kỳ họp) vì đã rút ngắn nhiệm kỳ để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 6 Phó Chủ tịch, 11 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Một trong những sự kiện quan trọng nhất của Quốc hội khóa này là thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả của hội nghị Hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất.
* Quốc hội khóa VI (1976-1981) bầu cử ngày 25-4-1976, với số cử tri bỏ phiếu là 23 triệu người; Tổng số đại biểu được bầu là 492 vị, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 94, đại biểu là trí thức nhân sĩ có 98. Đây là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Trong nhiệm kỳ này, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch, 7 Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, 13 Ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ 5 năm (1976-1981), với 7 kỳ họp, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Đổi tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh và thông qua Hiến pháp năm 1980 tại kỳ họp thứ 7, ngày 18-12-1980...
* Quốc hội khóa VII (1981-1987) bầu cử ngày 26-4-1981, với tỷ lệ cử tri bỏ phiếu là 97,96%; số đại biểu được bầu gồm 496 vị, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 61 vị, đại biểu là trí thức nhân sĩ có 110. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 12 thành viên đảm nhận chức năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Quốc hội khóa VII họp 12 kỳ, ban hành 10 đạo luật và 35 nghị quyết. Đáng chú ý ở khóa này là lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Quốc hội còn tăng cường triển khai thực hiện chức năng giám sát và chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
* Quốc hội khóa VIII (1987-1992) bầu cử ngày 19-4-1987, với tỷ lệ cử tri bỏ phiếu là 98,75; số đại biểu được bầu là 496 vị, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 31 và đại biểu là trí thức XHCN có 123. Trong nhiệm kỳ này, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Võ Chí Công được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 15 thành viên. Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 tại Kỳ họp thứ 11 ngày 15-4-1992. Đây là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội VI của Đảng đề ra. Quốc hội khóa này đã có 11 kỳ họp, ban hành 2 bộ luật, 25 đạo luật và Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
* Quốc hội khóa IX (1992-1997) bầu cử ngày 19-7-1992, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 99,12%; số đại biểu được bầu là 395 vị, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 33 vị và đại biểu có bằng đại học và trên đại học là 222. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, 3 Phó chủ tịch và 9 Ủy viên Ban Thường vụ. Quốc hội khóa IX đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Tại các kỳ họp, Quốc hội đã tập trung thời gian, trí tuệ để đẩy mạnh hoạt động lập pháp với kết quả là 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý hình thành môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hoạt động đối ngoại.
* Quốc hội khóa X (1997-2002) bầu cử ngày 20-7-1997, với tỷ lệ cử tri bỏ phiếu là 99,59%; số đại biểu được bầu là 450, trong đó đại biểu ngoài Đảng có 68 vị và đại biểu có bằng đại học và trên đại học là 411. Quốc hội đã bầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội có 14 thành viên, gồm Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, 5 Phó chủ tịch và 8 Ủy viên. Tại kỳ họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Văn An được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp, đẩy mạnh công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Với 32 luật và bộ luật, 39 pháp lệnh, Quốc hội khóa X đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
* Quốc hội khóa XI (2002-2007) bầu cử ngày 19-5-2002, với tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu là 99,73%; số đại biểu được bầu là 498, trong đó đại biểu ngoài Đảng chiếm 10,24%, đại biểu có bằng đại học và trên đại học là 465 người, chiếm 93,37%; đại biểu chuyên trách là 118 người, chiếm 23,69%. Tại Kỳ họp thứ nhất (từ ngày 19-7 đến ngày 12-8-2002), đồng chí Nguyễn Văn An được bầu lại làm Chủ tịch Quốc hội, 3 Phó chủ tịch và 9 thành viên trong Ban Thường vụ. Tại kỳ họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Tính đến hết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua 44 văn bản luật và 26 pháp lệnh. Hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XI không chỉ nhiều về số lượng mà còn bảo đảm về chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Các vấn đề quan trọng của đất nước như: Phân bổ ngân sách trung ương, xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, xây dựng Đường Hồ Chí Minh, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất... đã được Quốc hội xem xét, quyết định có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tháng 6-2003, Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát nhằm cụ thể hóa chức năng giám sát tối cao của Quốc hội. Công tác đối ngoại của Quốc hội khóa này tiếp tục được tăng cường với sự thành công của một loạt các hoạt động ngoại giao, tổ chức hội nghị quốc tế...
* Quốc hội khóa XII (2007-2011) bầu cử ngày 20-5-2007, với tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 99,64% (56.252.543 người); số đại biểu được bầu là 493, trong đó đại biểu ngoài Đảng là 43 người, chiếm 8,72%, đại biểu có bằng đại học và trên đại học là 473 người, chiếm 95,94%. Quốc hội thành lập Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan Thường trực của Quốc hội; bầu Hội đồng dân tộc và chín Ủy ban: Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính, Ngân sách; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; Ủy ban Về các vấn đề xã hội; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Ủy ban Quốc phòng và An ninh; Ủy ban Đối ngoại. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XII diễn ra từ ngày 19-7 đến ngày 4-8-2007, Quốc hội đã xem xét và quyết định việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII một năm, theo đó, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII sẽ kết thúc vào tháng 7-2011 thay vì tháng 7-2012. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập hai cơ quan chuyên môn là Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đến hết kỳ họp thứ 8, từ ngày 20-10 đến 26-11-2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua 64 luật, 11 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 15 pháp lệnh, 17 nghị quyết.
* Ngày 22-5-2011, cử tri cả nước sẽ đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp.
TH (Tổng hợp)
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065