>> Bài 1: Những bước chân đơn lẻ
>> Bài 2: Giọt nước sạch hòa vào biển lớn
>> Bài 3: Lối đi cho hồ tiêu Bình Phước
>> Bài 4: Cần một đề án tầm cỡ quốc gia
CẦN MỘT ĐỀ ÁN TẦM CỠ QUỐC GIA
BPO - Với sản lượng và kim ngạch lên tới 1,5 tỷ USD vào năm 2016 và 1,1 tỷ USD năm 2017, thông thường Việt Nam sẽ có những doanh nghiệp hàng đầu thế giới ngành hàng hồ tiêu. Song khá bất ngờ là trong số hàng chục doanh nghiệp thu mua - chế biến - xuất khẩu hồ tiêu trên cả nước hiện nay, Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào tầm cỡ như thế. Cũng như nhiều loại nông sản chủ yếu xuất thô nhưng chiếm thị phần lớn trên thế giới hiện nay ở nước ta, ngành hàng hồ tiêu đang giống như một bó đũa với những chiếc đũa rời rạc.
Không quan tâm người mua sản phẩm của mình “là ai”, sản phẩm sẽ được đưa đến thị trường nào, thị trường khắt khe hay dễ tính... Thậm chí cả những hộ đã tham gia câu lạc bộ tiêu sạch, sau khi cố gắng làm sạch sản phẩm của mình từ khâu chăm sóc, sản xuất, phơi, sàng bụi theo yêu cầu của bên ký kết thu mua, nhưng những “rác tiêu” còn lại như tiêu lép, cám tiêu vẫn tận dụng bán lại cho thương lái với quan điểm “có người mua thì mình bán”, được đồng nào hay đồng đó. Sự vô tư của họ khiến chúng tôi đi tìm “công bằng” cho những nông dân trồng tiêu chân chính.
LẮNG NGHE “HẠT TIÊU NÓI”…
Là một người có thâm niên trong lĩnh vực thu mua tiêu ở vựa tiêu Lộc Ninh, nhưng anh Nguyễn Văn Thương (tên nhân vật đã thay đổi) vẫn không thể biết hạt tiêu do đại lý mình thu mua về được đại lý cấp trên mua và đưa đến thị trường nào. “Đại lý của tôi thu mua tiêu từ các hộ nông dân với 2 hình thức mua trực tiếp tại cửa hàng và sử dụng đội ngũ thương lái lưu động đi đến các hộ dân để thu mua. Thương lái được hưởng chênh lệch từ 200-300 đồng/kg” - anh Thương cho biết.
Việc thu mua tiêu qua hệ thống thương lái tự do, về lâu dài sẽ có hệ lụy khôn lường cho ngành tiêu. Bởi thường các thương lái thu mua không qua kiểm tra chất lượng như test dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đo độ, giem tiêu... Chưa tính đến việc đo lường, test thông qua những phương pháp truyền thống không theo khoa học - kỹ thuật dẫn đến kết quả không chính xác khiến nông dân thiệt thòi. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo hơn là việc thu mua tràn lan của thương lái dẫn đến pha trộn giữa tiêu sạch với tiêu không sạch, vô hình chung sẽ không phân loại được giá trị sản phẩm. Điều này đã đánh đồng các sản phẩm tiêu được sản xuất từ nhiều quy trình khác nhau, tạo ra sự bất công đối với các hộ sản xuất tiêu sạch.
Mặc dù là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng điều khá lạ là thị trường Việt Nam chỉ có hơn 10 doanh nghiệp chính thức tham gia liên kết và thu mua hồ tiêu của nông dân như Olam Việt Nam, Phúc Sinh, Hanfimex Việt Nam, Nedspice Việt Nam…
Ngoài các doanh nghiệp lớn như vậy, thời gian qua đã có không ít trường hợp bị cơ quan chức năng phát hiện về việc “hô biến” tiêu dơ của những thương lái bất lương. Trong lịch sử xuất khẩu ngành tiêu của Việt Nam cũng có không ít lô hàng bị trả về do không đạt chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì thế, việc thu mua và bán các loại tiêu không đạt chất lượng sẽ khiến thị trường tiêu thêm khó kiểm soát.
Sự phản hồi của thị trường về chất lượng sản phẩm đặt ra vấn đề rất lớn đối với nông dân trồng tiêu - người trực tiếp quyết định chất lượng sản phẩm trong sản xuất, bảo quản. Nếu vẫn vô tư chạy theo năng suất, tận dụng phế phẩm như cám tiêu, rác tiêu để tận thu thì không ai khác - chính họ đã tự cầm đá ghè vào chân mình. Bởi khi sản phẩm kém chất lượng bị phát hiện trên thị trường sẽ ảnh hưởng tới mặt bằng chung của ngành tiêu Việt Nam và người trồng tiêu sẽ thiệt thòi nhất, gấp nhiều lần so với số tiền ít ỏi mà họ đã tận thu trước đó. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay việc tìm vị thế cho hồ tiêu Bình Phước nói riêng và của Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới không chỉ là 1 năm mà cả một chặng đường.
Thế nhưng, chuyện không chỉ có như vậy!
NHỮNG BÍ ẨN
Tất cả những điều đó dường như đã rất rõ ràng, doanh nghiệp nào cũng biết và có lẽ phần lớn người trồng tiêu cũng biết. Có 2 câu hỏi đặt ra. Thứ nhất, nông dân biết như vậy, sao vẫn làm? Thứ hai, những người trong cuộc đã và đang làm gì với hạt tiêu Việt Nam?
Không khó lý giải câu hỏi thứ nhất. Bởi người trồng tiêu cũng như trồng cây gì đi nữa, luôn đặt lợi ích của cá nhân mình lên trước. Sản phẩm của họ làm ra vẫn được tiêu thụ (hợp pháp) và tiêu thụ được (có người thu mua). Cơ quan chức năng, nhà nước đến nay chưa có bất kỳ một quy chuẩn nào đối với quy trình sản xuất hồ tiêu dành cho nông dân, thậm chí việc quản lý thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng hoặc kém chất lượng cũng rất lỏng lẻo. Vì thế khó có thể trách cứ nông dân trồng tiêu.
Sản phẩm hồ tiêu của Việt Nam xuất khẩu 95% sản lượng, chỉ 5% tiêu dùng trong nước. Cả nước hiện có 152.668 ha hồ tiêu, trong đó Bình Phước có 17.718 ha. Trong số 17.718 ha của Bình Phước, mới chỉ có 2.100 ha, tương đương 11,85%, tham gia mạng lưới sản xuất theo tiêu chuẩn sạch; còn lại gần như chưa tham gia một quy chuẩn sản xuất nào, chưa được một tổ chức, doanh nghiệp nào kiểm nghiệm và công nhận là tiêu sạch. Tỷ lệ này cũng tương tự như ở các vựa tiêu khác trong cả nước.
Vấn đề đó dẫn tới câu hỏi thứ 2: Rốt cuộc đều xuất khẩu được cả và phần lớn sản lượng sản hồ tiêu xuất chưa theo quy chuẩn ấy đã được tiêu thụ như thế nào, kiểm soát ra sao? Người trồng theo quy chuẩn xứng đáng phải được thu mua với giá như thế nào, giá trị thực của hạt tiêu Việt Nam đến đâu? Vì sao khi có biến động thị trường chủ yếu nông dân phải chấp nhận? Đây là những câu hỏi chỉ có 2 đối tượng trả lời được, một là “người trong cuộc thực sự” - những nhà thu mua, xuất khẩu, hai là chỉ khi hạt tiêu biết nói và nói lên con đường mà nó đã đi mới có thể sáng tỏ được.
CHUYỆN BÓ ĐŨA CỦA NGÀNH TIÊU
Theo số liệu của Hiệp hội Hồ tiêu thế giới (IPC), năm 2017 sản lượng hồ tiêu toàn cầu khoảng 547.000 tấn, tính cả tồn kho năm 2016 cộng vào đạt 567.000 tấn, trong đó riêng Việt Nam khoảng 180.000 tấn, tồn kho năm 2016 cộng vào đạt 201.000 tấn. Như vậy, sản lượng hồ tiêu Việt Nam chiếm khoảng 35% toàn cầu. Đồng thời, khác với các quốc gia khác phần lớn chế biến trong nước, sản lượng hồ tiêu của Việt Nam xuất khẩu gần như hoàn toàn và chiếm 55% sản lượng xuất khẩu toàn thế giới. Điều đó đồng nghĩa Việt Nam có thể dẫn dắt được thị trường thế giới. Thế nhưng, mặc dù giữ vai trò “số 1” về khối lượng như thế, song hồ tiêu của Việt Nam lại không quyết định được giá cả thị trường.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực tế này. Tại các hội thảo khoa học hay báo cáo của các hiệp hội hồ tiêu đã nêu lên nhiều lý do, như: Thương hiệu hồ tiêu Việt Nam yếu, chất lượng hồ tiêu Việt Nam thua kém, hạt tiêu của Việt Nam chủ yếu xuất thô nên phụ thuộc vào giá của sản phẩm sau chế biến sâu... Thế nhưng, có những lý do chưa từng (hoặc không muốn) đề cập tới trong các hội thảo và báo cáo ấy.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Lợi cùng đoàn làm việc đi tìm hiểu tình hình vụ tiêu năm 2016-2017 của nông dân trồng tiêu trên địa bàn tỉnh
Đó là hàng vạn nông dân trồng tiêu đang mạnh ai nấy trồng, mạnh ai nấy thu hoạch, mạnh ai nấy bán, không theo một tiêu chuẩn, một lối đi nào. Hệ quả sản phẩm của họ làm ra được đánh giá, xếp loại như thế nào, giá cả bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào người thu mua. Và mộ bộ phận doanh nghiệp xuất khẩu cũng bị đối tác nước ngoài lợi dụng điều ấy. Sự liên kết, hợp lực của các doanh nghiệp hồ tiêu trong nước gần như không có. Thời điểm giá tiêu cao, không chỉ đem lại thu nhập lớn cho nông dân, mà doanh nghiệp thu mua xuất khẩu cũng phát tài. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới ở một số địa phương có diện tích trồng tiêu “chỉ đủ dành cho kho cá”, nhưng lại có nhiều doanh nghiệp được thành lập nhằm tranh thủ mua - bán, xuất khẩu kiếm lời. Trong khi đó những doanh nghiệp ngành tiêu được xem là lớn ở trong nước không đủ tiềm lực dẫn dắt được thị trường.
Điều này ở các nước phát triển rất khó xảy ra bởi làm ăn manh mún, chụp giật sẽ bị bị tẩy chay bởi chính cộng đồng doanh nghiệp và người sản xuất nông sản. Còn ở nước ta, tác động kép từ sản lượng cung vượt cầu và từ chính cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đã bị đối tác nhập khẩu lợi dụng triệt để. Hạt tiêu Việt Nam bị ép giá xuống mức thấp nhất có thể trong 2 năm qua, xuất khẩu hiện chỉ còn khoảng 3 USD/kg, bằng khoảng 1/5 đến 1/4 so với năm 2016, trong khi giá tiêu của các nước khác vẫn ổn định hoặc giảm không đáng kể như Campuchia giữ mức 15 USD/kg, Thái Lan 6 USD/kg...
Đây là bài học và cũng là bài toán liên kết đặt ra đối với ngành hàng hồ tiêu hiện nay.
ĐỂ DẪN DẮT ĐƯỢC THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
Một yếu tố nữa vô cùng quan trọng trong việc dẫn dắt thị trường thế giới. Đó là xây dựng thương hiệu và chất lượng. IPC hiện có 6 nước thành viên, gồm Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Mã Lai, Sri Lanka và Việt Nam. Ngay cạnh chúng ta, Campuchia, sản lượng năm 2017 chỉ đạt khoảng 25.000 tấn, bằng 1/7 của Việt Nam. Thế nhưng, với giá xuất khẩu gấp 5 lần của Việt Nam, giá trị kim ngạch của Campuchia bằng 2/3 của Việt Nam nếu so sánh với giá hiện tại. Không chỉ đang vươn lên mạnh mẽ khi chiếm 1/2 sản lượng của các nước ngoài IPC, ngành hồ tiêu Campuchia còn phát triển rất bền vững khi chủ yếu sản xuất theo quy trình hữu cơ sinh học, tập trung xây dựng thương hiệu có tiếng chất lượng cao. Đây là đối thủ tiềm năng và cũng là tấm gương cho ngành hồ tiêu của Việt Nam nếu chúng ta muốn là người dẫn dắt thị trường thế giới.
HẠT TIÊU DÙNG ĐỂ LÀM GÌ? Trên thế giới hiện có khoảng 12 sản phẩm tiêu chế biến giá trị cao. Sản lượng xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam hầu hết là xuất thô, như tiêu đen, tiêu trắng, tiêu xanh, tiêu xay... Các nước nhập khẩu hồ tiêu của Việt Nam không phải chỉ để chế biến gia vị như hầu hết suy nghĩ của người dân Việt Nam. Họ nhập khẩu hạt tiêu để chế biến ra dầu tiêu, dầu nhựa tiêu dùng cho ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ phẩm. Tại Mỹ - nước nhập khẩu hạt tiêu nhiều nhất của Việt Nam với khoảng 30.000 tấn năm 2017, thì phần lớn số đó được sử dụng cho chế biến dầu tiêu, dầu nhựa tiêu. 30kg hạt tiêu làm được 1kg dầu nhựa tiêu. Hiện 1kg dầu nhựa tiêu ở Mỹ giá từ 500-1.000 USD, trong khi 30kg tiêu tại Việt Nam hiện bán chưa được 100 USD. Đối với nông dân trồng tiêu Việt Nam, chỉ cần giá 50-60 ngàn đồng/kg hiện nay tăng lên ngưỡng 100 ngàn đồng/kg đã đem lại niềm vui lớn như thế nào. Nhưng cho dù có lên mức giá đó, lợi nhuận đem lại của hàng trăm ngàn nông dân và hàng ngàn cơ sở thu mua, hàng chục doanh nghiệp sản xuất, chế biến, cũng không là gì so với chế biến sâu đem lại. Làm thế nào để có được doanh nghiệp chế biến sâu như thế? Nếu ngành hàng hồ tiêu Việt Nam hiện nay vẫn chỉ là những chiếc đũa đơn lẻ, thì khó có thể tạo nên một nguồn lực đủ mạnh cả về tài chính, kinh nghiệm và đối trọng với các doanh nghiệp đang làm giàu từ chính hạt tiêu do chúng ta sản xuất ra. |
Đứng trước thực trạng đó, ngành sản xuất hồ tiêu phải đưa ra lựa chọn tiếp tục tăng diện tích hoặc giữ diện tích hiện tại để tiếp tục củng cố ngôi vị “số 1 thế giới” về sản lượng, hay giảm diện tích để sát với quy hoạch của ngành nông nghiệp, đồng thời chuyển dần sang trồng hữu cơ sinh học và nâng cao chất lượng, hoặc vừa giữ diện tích, đồng thời cải tạo lại vườn và chuyển dần sang hữu cơ sinh học.
Quy hoạch phát triển ngành hồ tiêu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngay từ khi ban hành tháng 6-2014 đã có nhiều lạc hậu, điển hình như diện tích được quy hoạch (50.000 ha) thấp hơn nhiều so với diện tích thực tế thời điểm đó và chưa bằng 1/3 diện tích hiện nay. Và do chưa có một đề án tổng thể với hành lang pháp lý chặt chẽ nên hiện các tỉnh, huyện trồng tiêu trọng điểm vẫn mạnh ai nấy làm, mạnh doanh nghiệp nào doanh nghiệp ấy kinh doanh, xuất khẩu... Để có đáp án tốt nhất lúc này, rất cần một đề án phát triển ngành hồ tiêu một cách toàn diện, mang tầm cỡ quốc gia.
PV. BĐT
Link bài viết: http://baobinhphuoc.com.vn/Content/ho-tieu-va-con-duong-dan-dat-thi-truong-the-gioi-bao-dien-tu---bai-4-18338
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065