* Xuất phát từ quan điểm không giao quyền thực hiện việc lập quy hoạch và xây dựng kế hoạch sử dụng đất cho cấp huyện, tôi đề xuất ở Khoản 1, Điều 47 cần được bỏ dấu phẩy, sau cụm từ “cấp tỉnh” và tiếp đó bỏ cụm từ “cấp huyện”. Đồng thời, trước cụm từ “cấp xã” ở phần cuối của khoản này tôi đề nghị bổ sung cụm từ “cấp huyện” và dấu phẩy ở sau cụm từ “cấp huyện” mới được bổ sung. Do đó, Khoản 1, Điều 47 được viết lại như sau: 1. Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia. Thủ tướng Chính phủ căn cứ các chỉ tiêu sử dụng đất cấp quốc gia do Quốc hội phê duyệt, phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn cấp xã.
* Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, như trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Tức là Nhà nước cũng có đầy đủ các quyền đối với đất đai như người dân được giao quyền sử dụng đất, nhưng khác ở chỗ Nhà nước còn có quyền trưng thu, trưng mua và trưng dụng đối với đất đai. Việc thay đổi này hoàn toàn phù hợp với trường hợp khi Nhà nước lấy lại đất đã giao và người được giao đang sử dụng, để phục vụ lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng.
Vì vậy, tôi đề xuất ở Khoản 2 và 3 của Điều 47, không nên sử dụng cụm từ “phải thu hồi”, mà thay vào đó bằng cụm từ “được trưng mua” hoặc “được trưng dụng”. Cụ thể, ở Khoản 2 cần được bỏ cụm từ “phải thu hồi” và thay vào đó bằng cụm từ “được trưng dụng” sau cụm từ “diện tích đất phải”. Đồng thời, bỏ cụm từ “việc thu hồi đất” sau cụm từ “chưa thực hiện việc”. Tiếp đó, thay cụm từ “thu hồi” sau cụm từ “Nhà nước” bằng cụm từ “trưng dụng”. Ở câu thứ hai của khoản này cũng thay cụm từ “thu hồi” ngay sau cụm từ “thông báo” bằng cụm từ “trưng dụng” và thay cụm từ “phải thu hồi” sau cụm từ “gắn liền với đất” bằng cụm từ “được trưng dụng”. Ở Khoản 3 của điều này, tất cả những cụm từ “thu hồi” hoặc “phải thu hồi” cũng cần được thay thế bằng cụm từ “trưng dụng” hoặc cụm từ “được trưng dụng” cho phù hợp.
Như vậy, Khoản 2 và 3 của Điều 47 được viết lại như sau: 2. Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất được trưng dụng theo quy hoạch sử dụng đất mà Nhà nước chưa thực hiện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước trưng dụng đất, bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất không được tự ý xây dựng, trồng cây lâu năm trong khu vực đã có thông báo trưng dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trường hợp người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất được trưng dụng mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.
3. Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất đã được công bố trưng dụng để thực hiện dự án, công trình hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau ba (03) năm chưa có quyết định trưng dụng đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ việc trưng dụng phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất; trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không công bố việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ việc trưng dụng phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại Khoản 2 điều này.
* Nội dung của Khoản 2, Điều 50 trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi có quy định như sau: 2. Trường hợp giao đất, cho thuê đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì ngoài các căn cứ quy định tại Khoản 1 điều này còn phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Theo ý kiến của cá nhân tôi thì quy định như vậy là đúng, nhưng chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình thực tế ở các địa phương hiện nay và chưa ngăn chặn được tình trạng quy hoạch và chuyển mục đích sử dụng đất. Cụ thể là như quy định ở trên, thì mới chỉ ngăn chặn được hành vi giao đất, cho thuê đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác, mà chưa ngăn chặn được việc chuyển mục đích sử dụng các loại đất trên.
Vì vậy, tôi đề xuất ở khoản này nên thêm cụm từ “và chuyển mục đích sử dụng” vào ngay sau cụm từ “cho thuê đất”. Như vậy, Khoản 2, Điều 50 sẽ được bổ sung và viết lại như sau: 2. Trường hợp giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì ngoài các căn cứ quy định tại Khoản 1 điều này còn phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Nghĩa là, việc chuyển mục đích sử dụng đối với đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì phải căn cứ vào quy định tại Khoản 1, điều này - a) Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; b) Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã được cơ quan tài nguyên và môi trường thẩm định.
Có quy định chặt chẽ như trên mới ngăn chặn được tình trạng chuyển mục đích sử dụng bừa bãi đối với đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng... nhằm bảo đảm an ninh lương thực của đất nước trong những thập niên tới và góp phần tích cực vào việc ngăn chặn biến đổi khí hậu.
Hòa Bình (Hội luật gia tỉnh)
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065