Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán vừa được Bộ Tài chính trình Chính phủ và đưa ra trưng cầu ý kiến góp ý của cơ quan, ban ngành ở trung ương, địa phương và nhân dân. Dự thảo chỉ sửa 10 điều của Luật Kế toán đã được Quốc hội thông qua năm 2003, trong đó, điều 55 về hành nghề kế toán được chia thành chín điều, từ 55a đến 55k. Nội dung bổ sung quan trọng nhất là đặt ra những điều kiện hành nghề khắt khe hơn so với Luật Kế toàn hiện hành.
Cụ thể, tại Điều 55d trong dự thảo Luật Kế toán sửa đổi là những quy định về điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán. Nội dung của điều này quy định rằng công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên phải có đủ các điều kiện: a) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật; b) Có ít nhất ba kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có hai thành viên góp vốn; c) Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc phải là kế toán viên hành nghề; d) Bảo đảm vốn pháp định theo quy định của Chính phủ; đ) Phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp; phần vốn góp của các thành viên là tổ chức không quá 35% vốn điều lệ của công ty.
Trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay thì những điều kiện nêu trên là không cần thiết. Vì những nội dung trên là sự áp đặt những quy định đối với quản lý hoạt động kinh doanh của lĩnh vực kiểm toán độc lập cho dịch vụ kế toán. Trong khi đó, từ phạm vi hoạt động đến giá trị pháp lý của kết quả giữa dịch vụ kế toán và kiểm toán độc lập có sự khác nhau rất cơ bản. Cụ thể là kiểm toán độc lập có báo cáo kiểm toán riêng và báo cáo này được sử dụng với nhiều mục đích như tham gia đấu thầu, vay vốn, liên doanh, liên kết, chia lợi nhuận... Ngược lại, các sổ sách kế toán và báo cáo tài chính do doanh nghiệp dịch vụ kế toán lập cho khách hàng, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khách hàng vẫn phải ký và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hơn nữa, các sổ kế toán và báo cáo tài chính này, trong phần lớn trường hợp, chỉ phục vụ mục đích kê khai, quyết toán thuế. Vì vậy, yêu cầu “có ít nhất ba kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có hai thành viên góp vốn” là quá mức cần thiết.
Bất cập tiếp theo là quy định về điều kiện: “Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty TNHH phải là kế toán viên hành nghề” là vô lý. Bởi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm toàn diện về mọi hoạt động của doanh nghiệp nên phải có kinh nghiệm quản lý, kiến thức tương đối toàn diện. Không phải bất cứ ai có chứng chỉ hành nghề kế toán cũng có kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp. Do đó, chỉ cần quy định giám đốc (hoặc tổng giám đốc) doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải có chứng chỉ hành nghề kế toán và chỉ người có chứng chỉ hành nghề kế toán mới được ký hợp đồng dịch vụ kế toán là đủ.
Thứ ba là quy định về điều kiện: “Bảo đảm vốn pháp định theo quy định của Chính phủ” là một “sáng tạo” không thể thực thi. Vì lẽ, dịch vụ kế toán không đòi hỏi vốn lớn, cũng không phải là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm có thể phải bồi thường vật chất đến mức phải quy định vốn pháp định. Những rủi ro thường gặp trong dịch vụ kế toán đều có nguyên nhân từ sự không hợp pháp của chứng từ, tài liệu được sử dụng trong công tác kế toán. Song, các hợp đồng dịch vụ kế toán đều quy định về trách nhiệm của khách hàng là “chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự hợp pháp của chứng từ, tài liệu kế toán được cung cấp để sử dụng trong công tác kế toán”. Do đó, những khoản mà doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải bồi thường cho khách hàng (nếu có) thường chỉ là phạt vi phạm hành chính từ những lỗi kỹ thuật của kế toán viên.
Thứ tư là quy định về: “Phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp...” là không khả thi. Bởi lẽ, hoạt động dịch vụ kế toán là lĩnh vực “năng nhặt, chặt bị”, không phải cứ có chứng chỉ hành nghề là đã có tiền để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Ví dụ như: Một công ty TNHH có năm thành viên (trong đó đã ba thành viên có chứng chỉ hành nghề kế toán) có vốn điều lệ 1 tỉ đồng, thì ba thành viên có chứng chỉ hành nghề phải góp ít nhất 505 triệu đồng. Bất cập của quy định này là ở chỗ có được mấy người đủ số tiền theo yêu cầu trên để góp vốn.
Thứ năm là theo quy định của Luật Kế toán hiện hành, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ cần có hai người có chứng chỉ hành nghề và đăng ký hành nghề với Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam (VAA). Song, theo dự thảo sửa đổi, doanh nghiệp phải xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán với quy định về hồ sơ gồm: 1. Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán; 2. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư; 3. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề; 4. Hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian của các kế toán viên hành nghề; 5. Tài liệu chứng minh về vốn góp đối với công ty TNHH; 6. Các giấy tờ khác do Bộ Tài chính quy định. Với quy định này thì sẽ có hai giấy phép con cùng xuất hiện là giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề và giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán. Điều này đi ngược lại yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Thứ sáu là cũng theo quy định tại dự thảo, những người đã đủ những tiêu chuẩn và đã có tới năm năm làm kế toán nhưng vẫn phải qua một kỳ thi quốc gia mới có thể lấy được “chứng chỉ hành nghề kế toán”. Bản thân chứng chỉ hành nghề đã là một “giấy phép con”, nhưng để được hành nghề lại phải xin cấp giấy chứng nhận hành nghề? Và như vậy cũng có nghĩa là giấy chứng nhận hành nghề kế toán có giá trị pháp lý cao hơn chứng chỉ hành nghề kế toán và như thế cũng có nghĩa là có một “giấy phép con” mới chồng lên “giấy phép con” cũ?
Nếu những quy định vô lý, bất cập và thiếu tính khả thi như trên không được sửa đổi, bổ sung và được thông qua, thì trong những năm tới sẽ có nhiều doanh nghiệp dịch vụ kế toán sẽ tự nhiên biến mất trên thị trường. Vì thứ nhất là do chủ doanh nghiệp không đủ sức (cả về thời gian lẫn tiền bạc) để “xin” các giấy phép con. Thứ hai sẽ có một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tuy không còn tồn tại trên giấy tờ, tức là không đăng ký hành nghề, không xin giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh nhưng vẫn tồn tại trên thực tế. Và như vậy, việc hậu kiểm và xử lý vi phạm sẽ cực kỳ phức tạp và liệu cơ quan chức năng có đủ lực lượng để kiểm tra xử phạt?
NV
Đài Phát thanh - Truyền hình và Báo Bình Phước
Trụ sở: Số 1 - Trần Hưng Đạo - P. Tân Phú
- TP. Đồng Xoài - Tỉnh Bình Phước
Giấy phép xuất bản số: 430/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/10/2019
Ghi rõ nguồn "Bình Phước Online" khi phát hành lại thông tin từ Website này
Giám đốc - Tổng biên tập: Nguyễn Thị Minh Nhâm
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Đoàn Như Viên
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Phan Văn Thảo
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Thành Long
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Cao Minh Trực
Phó Giám đốc - Phó Tổng biên tập: Nguyễn Ngọc Vũ
Đường dây nóng: 0866.909.369
Email: [email protected]
Điện thoại: 0271.3887189 - 0271.3870020
Fax: 0271.3870720
Liên hệ quảng cáo: 0271.2211556 - 0271.3887065